Nhiều Liên đoàn - Hiệp hội đang duy trì cho có, thậm chí phần nào đó còn tạo ra những rào cản cho sự phát triển.
Có thể coi 1989 là cột mốc cho sự thay đổi khi Chính phủ chỉ thị chuyển giao các hoạt động tác nghiệp từ cơ quan quản lý nhà nước cho các tổ chức xã hội – nghề nghiệp về thể thao. Ở thời điểm đó, mới chỉ có 10 Liên đoàn- Hiệp hội thể thao quốc gia, đảm trách duy nhất nhiệm vụ đối ngoại mang tính thủ tục theo quy định quốc tế.
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế và xã hội hóa của thể thao Việt Nam, số lượng các Liên đoàn- Hiệp hội thể thao quốc gia được thành lập tăng lên nhanh chóng. Năm 2010, Việt Nam đã có 22 Liên đoàn- Hiệp hộI, và đến giờ đã là 40, trong đó mới nhất là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của bóng chày – bóng mềm, hai môn còn khá mới ở nước ta.
Hiện tại một số Liên đoàn- Hiệp hội theo môn, nhóm môn như bắn cung, triathlon cũng tiếp tục được vận động thành lập. Ngành thể thao đặt ra mục tiêu tiến tới hình thành tổ chức xã hội- nghề nghiệp ở tất cả các môn, lĩnh vực quan trọng, cả thể thao thành tích cao và thể thao cho mọi người.
Sự ra đời của các Liên đoàn - Hiệp hội thể thao quốc gia, giờ đã lên tới con số 40, xuất phát từ đòi hỏi thực tế, xu thế phát triển của thể thao Việt Nam. Về tổng thể, các tổ chức này đã thể hiện được vai trò, có những đóng góp tích cực, rõ nhất ở mảng hội nhập quốc tế, kết nối thúc đẩy phong trào, tạo nguồn kinh phí.
Tuy nhiên phía sau con số ấn tượng 40 Liên đoàn- Hiệp hội là một thực trạng chung đáng lo ngại, với rất nhiều yếu kém, khó khăn, bất cập.
Nhìn nhận thẳng thắn, chỉ một vài Liên đoàn- Hiệp hội- có thể đếm trên đầu ngón tay- đang có hoạt động mạnh, bộ máy chuyên trách và chuyên nghiệp, đạt tới sự tự chủ cao, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ rõ ràng, nổi bật với bóng đá. Theo đánh giá của các chuyên gia, có thể coi VFF là đơn vị duy nhất đã hội đủ các yếu tố hoàn chỉnh của một thiết chế tổ chức xã hội nghề nghiệp.
VFF đã có sự tự chủ cao, cơ bản gánh vác được các hoạt động của bóng đá Việt Nam với một bộ máy độc lập gồm 70 nhân sự tại trụ sở riêng, cùng nguồn thu tốt từ tài trợ, đơn cử nhiệm kỳ 7 (2014-2018) là 247 tỉ đồng. Một vài Liên đoàn khác như bóng chuyền, quần vợt, cầu lông, bóng rổ, xe đạp, dù có khoảng cách xa rõ rệt so với VFF, cũng đã hoạt động hiệu quả bước đầu, đạt tới sự tự chủ ở các mức khác nhau.
Chỉ có điều, họ mới tự chủ được một phần, ở một số hoạt động. Ví như Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam mỗi năm có nguồn thu từ 11-17 tỉ đồng, có văn phòng với nhân sự chuyên trách riêng, tự lo được các giải đấu trong hệ thống.
Trong khi đó, các Liên đoàn – Hiệp hội thể thao quốc gia còn lại, chiếm đa số, đều đang hoạt động không thường xuyên, một số duy trì cho có, hoàn toàn mang tính hình thức. Một sự thật phổ biến của các tổ chức này là Chủ tịch và Tổng thư ký đều kiêm nhiệm, không có văn phòng, không có nhân sự chuyên trách, các tiểu ban đều chỉ bầu ra cho có…
Mọi người chắc hẳn sẽ giật mình khi biết rằng Liên đoàn Điền kinh Việt Nam- một tổ chức truyền thống và lớn bậc nhất của môn đang dẫn đầu tuyệt đối tại SEA Games mà gần như không có tài trợ. Mỗi năm nguồn thu của Liên đoàn chỉ khoảng 1 tỉ đồng, chủ yếu từ thu lệ phí.
Cũng không thể tìm ra bất cứ hoạt động, dấu ấn gì đúng nghĩa tổ chức xã hội- nghề nghiệp của Liên đoàn Cầu mây Việt Nam sau hai nhiệm kỳ thành lập. Có lẽ chỉ là sự hiện diện của ông Chủ tịch Liên đoàn để làm công việc trao giải tại các cuộc đấu.
Ngoài chuyện hoạt động “được chăng hay chớ”, một số Liên đoàn- Hiệp hội thậm chí còn tạo ra những rào cản cho phát triển, biểu hiện nhà nước hóa hay lệch chuẩn do không nhận thức đúng, hay không thực hiện đúng chức năng, quyền và nghĩa vụ của mình. Điển hình như Liên đoàn Boxing Việt Nam với mối quan hệ “giằng ôm” quyền, trách nhiệm, hoạt động lên tới đỉnh điểm với bộ môn của Tổng cục TDTT. Hay Liên đoàn Bóng rổ Việt Nam gần như chỉ tập trung mọi sự quan tâm, nguồn lực cho giải đấu VBA hào nhoáng.
Điều đáng nói, thực trạng đáng buồn của các Liên đoàn- Hiệp hội thể thao quốc gia vẫn không có gì thay đổi, phần nào đó còn phức tạp và tệ hơn, sau 14 năm luật TDTT được ban hành và 10 năm đề án chuyển giao hoạt động tác nghiệp cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp thể thao được triển khai.
Tất cả dẫn đến một vòng luẩn quẩn: cơ quan quản lý nhà nước vẫn nặng bao cấp các tổ chức xã hội nghề nghiệp yếu kém, trong khi tiềm năng, nguồn lực xã hội hóa rất lớn bị lãng phí.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thảm trạng kéo dài này, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong đó, về phía chính các Liên đoàn- Hiệp hội, đầu tiên phải nói đến sự thiếu hụt các điều kiện cơ bản cho hoạt động cùng tâm lý trông chờ, thụ động gắn với nhận thức cùng cách làm mang nặng tính hành chính, bao cấp. Thứ nữa, quan trọng không kém, là cách thức quản lý “nửa vời”, rõ nhất với kiểu “nửa nắm nửa buông” của cơ quan quản lý nhà nước.
1. Liên đoàn thể thao quốc gia là tổ chức xã hội - nghề nghiệp về một môn hoặc một số môn thể thao và được gia nhập liên đoàn thể thao quốc tế tương ứng.
2. Liên đoàn thể thao quốc gia hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện quyền, nghĩa vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo quy định của pháp luật.
3. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chuẩn y điều lệ tổ chức và hoạt động của liên đoàn thể thao quốc gia được thực hiện theo quy định của pháp luật về hội, phù hợp với quy định của liên đoàn thể thao quốc tế.
(Điều 70 Luật TDTT năm 2007)
>>>: Bi hài chuyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của các Liên đoàn- Hiệp hội thể thao quốc gia
>>>: Bóng rổ phát triển như vũ bão nhưng Liên đoàn bóng rổ vẫn... giậm chân tại chỗ
>>> Hiệp hội / Liên đoàn thể thao Quốc gia các nước hoạt động như thế nào?
>>> Chuyên gia Nguyễn Hồng Minh: Các Liên đoàn - Hiệp hội đang tụt hậu hàng thập kỷ
>>> Làm gì để “giải cứu” các Liên đoàn - Hiệp hội thể thao quốc gia?